• Sống thân thiện với môi trường
 

SỐ LƯỢT TRUY CẬP

4
9
7
8
0
7
7
0
Thông tin tổng hợp trong lĩnh vực đất đai 11 Tháng Tám 2014 9:05:00 SA

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai

  


Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tài sản quan trọng của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện cần cho mọi hoạt động sản xuất và đời sống. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các nhu cầu sử dụng đất ngày càng gây ra áp lực không nhỏ đến đất đai, đòi hỏi phải sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả.
 

Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai và các luật có liên quan, đưa quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa; tiếp tục mở rộng dân chủ, tạo cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý và cán bộ quản lý; tạo cơ chế để người dân được tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước, để tổ chức và cá nhân thực hiện quyền giám sát của mình.

Nhìn chung hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ngày càng được nâng lên rõ rệt. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được ban hành khá đầy đủ; các quyết định, quy định của Nhà nước liên quan đến đất đai được thực hiện trên thực tế ngày càng cao hơn. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai ngày càng được nâng lên. Nhà đầu tư nước ngoài từng bước được mở rộng cơ hội trong việc tiếp cận đất đai; những bất cập về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từng bước được khắc phục. Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện Luật Đất đai đã được thực hiện thường xuyên, đã kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm trong quản lý và sử dụng đất đai. Việc lập, xét duyệt và triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp đã dần đi vào nề nếp.

Đến nay, trên 90,25% diện tích tự nhiên của cả nước được khai thác đưa vào sử dụng, được phân bổ đáp ứng các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng; cả nước đã cấp được 40,8 triệu giấy chứng nhận với tổng diện tích 22,7 triệu ha, đạt 93,8% diện tích các loại đất cần cấp giấy chứng nhận. Tổng diện tích đất đã được Nhà nước giao, cho thuê và công nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng sử dụng là 24.996.000 ha, trong đó hộ gia đinh, cá nhân đang sử dụng 14.878.000 ha (59,52%); các tổ chức trong nước sử dụng 9.735.000 ha (38,95 %); tổ chức, cá nhân nước ngoài được thuê sử dụng 56.000 ha (0,22%); cộng đồng dân cư được giao 325.000 ha (1,30%). Quỹ đất sản xuất nông nghiệp được bố trí hợp lý theo nguyên tắc bảo vệ quỹ đất trồng lúa, hình thành các vùng chuyên canh phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng vùng. Diện tích đất nuôi trồng thủy sản tăng góp phần nâng sản lượng nuôi trồng thủy sản, đáp ứng đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới (đứng thứ 6 trong tốp 10 nước đứng đầu). Đất lâm nghiệp trong 10 năm qua liên tục tăng, diện tích đất lâm nghiệp tăng góp phần nâng độ che phủ từ 35,2% năm 2000 lên 39,5% năm 2010, đến nay gần 41%.

Quỹ đất dành cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị được mở rộng. Diện tích đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp hiện có gần 100 nghìn ha giai đoạn 2006 - 2010, bình quân mỗi năm tăng 9,4 nghìn ha đáp ứng được yêu cầu thu hút nhà đầu tư. Diện tích đất chưa sử dụng của cả nước từng bước được khai thác đưa vào trồng rừng một cách hợp lý, đảm bảo yêu cầu cân bằng hệ sinh thái và bảo vệ môi trường.

Nguồn thu từ đất đai cho ngân sách nhà nước tăng qua các năm (năm 2002 là 5,5 nghìn tỷ đồng, năm 2005 đạt gần 18 nghìn tỷ đồng, năm 2006 đạt gần 21 nghìn tỷ đồng, năm 2007 đạt gần 37 nghìn tỷ đồng, năm 2008 đạt trên 40 nghìn tỷ đồng, năm 2009 đạt gần 47 nghìn tỷ đồng và năm 2010 đạt 67 nghìn tỷ đồng).

Thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an sinh xã hội, tạo được nhiều việc làm, ổn định đời sống cho người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại sau:

              Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất chưa nghiêm. Có không ít những quy định của pháp luật đất đai và những quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan đến đất đai không được thực thi hoặc thực thi hình thức. Nhiều bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành. Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về đất đai còn thiếu và chưa đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm.

 Nguồn lực đất đai chưa được khai thác và phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách thuế chưa thực hiện tốt vai trò điều tiết thị trường bất động sản. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp còn rất thấp, trong khi đây là một nguồn thu chính từ đất để phát triển kinh tế - xã hội. Việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp. Các quy định của pháp luật chưa đảm bảo giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.

              Chất lượng quy hoạch sử dụng đất chưa cao, chưa đồng bộ với các quy hoạch chuyên ngành, tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý quy hoạch còn yếu.  Nhiều quyết định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thiếu khả thi, tình trạng quy hoạch "treo" xảy ra ở nhiều nơi. Theo số liệu kiểm tra năm 2006: cả nước có 1.649 khu vực quy hoạch với diện tích 344.665 ha được xếp vào diện quy hoạch "treo"; cả nước có 1.288 dự án với diện tích 31.650 ha thuộc trường hợp giải tỏa "treo" nhưng việc thực thi rất khó khăn, gây bức xúc trong dư luận.

Thị trường quyền sử dụng đất phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm” khá phổ biến. Nhu cầu nhà ở, đất ở cho các đối tượng chính sách xã hội, cán bộ công chức, người có thu nhập thấp chưa được đáp ứng. Hiện nay Nhà nước mới chỉ quản lý được các thửa đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chưa quản lý được các thửa đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.

              Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới năm 2010 ở 63 UBND tỉnh, 3 Bộ, 24 UBND huyện, 117UBND xã, quy định về việc phải công khai, minh bạch thông tin quản lý theo Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có khá nhiều nội dung được thực hiện với tỷ lệ rất thấp. Quy trình lấy ý kiến của dân đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã gần như không được thực hiện.  

              Mục tiêu hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2007 không đạt được, sau nhiều lần gia hạn, đến nay vẫn chưa hoàn thành. Tại các đô thị lớn, đất có giá cao, người muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng  đất luôn gặp phải khó khăn. Tại các vùng nông thôn, miền núi giá đất thấp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ký nhưng người sử dụng đất không muốn nhận do phải nộp tiền.

Theo kết quả khảo sát xã hội học được Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng thế giới công bố ngày 20/11/2012, đầu cơ đất đai vượt giới hạn; tình trạng tham nhũng trong quản lý đất đai được đánh giá là ở nhóm đầu; khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ cao tới 70-80% tổng số khiếu nại, tố cáo của công dân.

Để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai cần quan tâm thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, trong đó tăng cường chế tài xử lý vi phạm pháp luật đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa vi phạm, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước; giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quốc hội và Hội đồng nhân các cấp. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.

Hai là, sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý: pháp luật, quy hoạch, tài chính và hành chính trong quản lý đất đai đảm bảo các quan hệ đất đai vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Tăng cường áp dụng các biện pháp kinh tế (thuế, phí và cơ chế tài chính khác....), hạn chế việc áp dụng các biện pháp hành chính để điều tiết vĩ mô các hành vi của con người; tăng cường việc đấu giá quyền sử dụng đất, đầu thầu các dự án có sử dụng đất; nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách hình thành các nguồn thu mới từ đất đai để đất đai thực sự trở thành nguồn lực cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Ba là, đổi mới công tác lập quy hoạch, nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo hướng tiếp cận phương pháp tiên tiến; quan tâm đến vấn đề kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, mục tiêu bảo đảm an ninh lượng thực, có tính đến tác động của biến đổi khí hậu; tạo sự đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng; có phân tích không gian nhu cầu sử dụng đất; công khai và tham vấn các bên liên quan trong quá trình lập quy hoạch.

 Tăng cường ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ công tác điều tra, đánh giá số lượng và chất lượng đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai; xây dựng bản đồ giá đất, giám sát biến động tài nguyên đất đai lồng ghép với các yếu tố môi trường và biến đổi khí hậu.

Hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai và hệ thống hồ sơ địa chính theo hướng hiện đại, theo mô hình tập trung, thống nhất trên phạm vi cả nước, phục vụ đa mục tiêu, đảm bảo công khai, minh bạch; chuyển dần các hoạt động đăng ký, giao dịch trong lĩnh vực đất đai sang giao dịch điện tử.

Bốn là, nghiên cứu, xây dựng cơ chế định giá đất, phù hợp với thực tế để làm căn cứ để tính thuế, phí, cho thuê, bồi thường thiệt hại. Tổ chức thực hiện theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên thị trường; từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất tới từng thửa đất gắn với cơ sở dữ liệu đất đai. Công khai giá trị bất động sản đến từng đơn vị bất động sản trong hệ thống tính thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính có liên quan.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật đảm bảo hài hòa các lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; nghiên cứu áp dụng các cơ chế tài chính điều tiết phần giá trị gia tăng của đất không phải do chủ đầu tư mà do nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc do quy hoạch tạo nên để phục vụ mục đích công; xây dựng cơ chế chính sách phù hợp để Nhà nước kiểm soát được tất cả các hoạt động giao dịch đất đai nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, hạn chế tối đa, tiến đến xóa bỏ tình trạng giao dịch “ngầm” về đất đai; điều chỉnh các mức nghĩa vụ tài chính trong đăng ký đất đai cho phù hợp, tiến tới xóa bỏ các phí không chính thức trong đăng ký đất đai.

Sáu là, tiếp tục hoàn thiện các quy định, đồng thời thực hiện đầy đủ cơ chế lấy ý kiến của nhân dân về việc lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, lập phương án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cũng như các phương án khác có liên quan tới lợi ích của người dân đảm bảo thực sự công khai minh bạch, khắc phục tình trạng "lợi ích nhóm" trong các hoạt động quản lý, sử dụng đất.

Bảy là, xây dựng nền hành chính thực sự công minh bạch, hiệu quả đảm bảo thực hiện tốt các hoạt động quản lý nhà nước và các dịch vụ công về đất đai vừa thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp; quan tâm đến nhu cầu sử dụng đất của doanh nghiệp vừa và nhỏ, người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương khác. Tổ chức tốt việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và các vấn đề xã hội liên quan đến đất đai; hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp và khiếu nại về đất đai theo hướng tăng cường đối thoại và pháp luật thừa nhận hòa giải tại cộng đồng, giải quyết dứt điểm các khiếu nại và tranh chấp về đất đai ngay từ cơ sở, không để xảy ra các điểm “nóng” và tình trạng khiếu kiện vượt cấp, kéo dài. 

 

Thạc sỹ Nguyễn Văn Quý - Vụ Nông nghiệp - Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương


Số lượt người xem: 3288    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Xem tiếp
Xem theo ngày Xem theo ngày
Tìm kiếm