PV: Từ những biểu hiện của biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam, những nội dung trọng yếu nào đã được Bộ TN&MT đưa vào các hoạt động kỷ niệm ngày Khí tượng Thế giới năm nay, thưa ông?
Cục trưởng Nguyễn Văn Tuệ: BĐKH không còn là câu chuyện của tương lai nữa mà đã và đang có những biểu hiện rất rõ ràng. Sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và nước biển dâng diễn biến khá chậm nên lâu nay chúng ta ít để ý đến, nhưng những thay đổi về quy luật khí hậu, gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan những năm gần đây ở hầu khắp các quốc gia chính là lời cảnh báo nguy cấp nhất.
Chủ đề của Ngày Khí tượng Thế giới năm nay gắn với những tác động của BĐKH, nhấn mạnh vào đặc điểm thiên tai có tính dị thường: nắng nóng hơn, khô hạn hơn nhưng lại mưa lũ nhiều hơn. Năm nay, Bộ TN&MT sẽ lồng ghép các hoạt động kỷ niệm với tuyên truyền về tình hình diễn biến thiên tai thời tiết, khả năng dự báo, cảnh báo các hiện tượng thời tiết, khí hậu; cập nhật nội dung kịch bản biến đổi khí hậu, những thông tin mới nhất từ Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH và kết quả của các nghiên cứu, chương trình ứng phó BĐKH trong giai đoạn trước. Kịch bản BĐKH cập nhật cũng là cơ sở cho các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch ứng phó chi tiết hơn cho các giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, Bộ TN&MT sẽ giới thiệu về Luật KTTV, trong đó, có những nội dung liên quan đến giám sát BĐKH. Việc ban hành Luật KTTV cũng như từng bước hoàn thiện những chính sách trong lĩnh vực KTTV và BĐKH thể hiện sự quan tâm của Nhà nước trong việc nâng cao năng lực và tăng cường khả năng quản lý các hoạt động KTTV trên toàn lãnh thổ.
PV: BĐKH không có biên giới quốc gia, vậy các cam kết quốc tế đã khẳng định như thế nào về việc cùng giải quyết các tác động của BĐKH, thưa ông?
Cục trưởng Nguyễn Văn Tuệ: Hiện nay, Hiệp định ràng buộc tất cả các quốc gia đều phải có trách nhiệm cắt giảm phát thải khí nhà kính để hạn chế sự tăng nhiệt độ Trái Đất, thực hiện đúng phương châm của Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH là trách nhiệm chung nhưng có sự phân biệt. Các nước tham gia Công ước khung sẽ thực hiện cắt giảm theo cam kết đóng góp do quốc gia tự quyết định, phù hợp với điều kiện, năng lực của quốc gia mình.
Trong lĩnh vực khí tượng, các cơ quan KTTV quốc gia trên thế giới và các đối tác hợp tác với nhau thông qua Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) để thực hiện các quan trắc khí tượng toàn cầu và Khung toàn cầu về Dịch vụ Khí hậu (GFCS). Qua đây, kiến thức, tri thức về khí hậu được biến thành các hành động thiết thực để tăng cường khả năng dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai; chống chịu với BĐKH, xây dựng phương án thích ứng và giảm nhẹ, góp phần vào phát triển kinh tế xã hội bền vững. Việt Nam cũng như các nước thành viên WMO sẽ có cơ hội được sử dụng nguồn dữ liệu khổng lồ về quan trắc khí tượng toàn cầu, có cơ hội trao đổi thông tin, tăng cường năng lực và hợp tác khoa học để nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai.
Trong việc phối hợp giải quyết hậu quả thiên tai, hiện chưa có cơ chế quốc tế nào ràng buộc trách nhiệm của các quốc gia. Mỗi khi xảy ra thiên tai, tùy theo điều kiện cụ thể, các nước sẽ hỗ trợ khắc phục hậu quả theo đề nghị của nước sở tại. Trường hợp Việt Nam vừa rồi đề nghị Trung Quốc xả nước thủy điện để giúp Đồng bằng Sông Cửu Long chống hạn mặn cũng có thể xem như hỗ trợ quốc tế để khắc phục hậu quả thiên tai.
PV: Từ góc độ của người quản lý lĩnh vực, ông nhận thấy việc xây dựng thể chế quốc tế về liên kết giải quyết tác động của BĐKH, đặc biệt là ứng phó với thiên tai và bảo vệ nguồn nước có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?
Cục trưởng Nguyễn Văn Tuệ: Theo tôi, từ trường hợp hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long của Việt Nam, cần phải nhìn xa hơn trong vấn đề liên kết để giải quyết vấn đề ứng phó với thiên tai. Không chỉ vấn đề xử lý hạn mặn mà còn là việc xử lý hoạt động xây dựng các đập thủy điện ngăn dòng, làm thay đổi chế độ dòng chảy, giảm hảm lượng phù sa dinh dưỡng về hạ du, suy giảm hệ sinh thái vùng đồng bằng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội. Nếu cần có công ước quốc tế, nên là công ước về khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn nước trên dòng sông trên dòng sông Mê Kông.
Theo số liệu quan trắc, trường hợp hạn mặn nghiêm trọng như hiện nay tại Việt Nam là thiên tai trăm năm mới gặp, do ảnh hưởng của BĐKH và hiện tượng El Nino. Những ảnh hưởng như thế này hoặc nghiêm trọng hơn do BĐKH và El Nino chắc chắn sẽ còn tiếp diễn trong tương lai. Về lâu dài, Ủy hội sông Mê Kông cần có sự tham gia của Trung Quốc - nước đầu nguồn sông Mê Kông để cùng giải quyết những vấn đề phát sinh khi xảy ra thiên tai tương tự trên lưu vực.
Ngoài ra, giải pháp lâu dài và căn cơ còn phụ thuộc vào năng lực nội tại của quốc gia. Khi giải quyết bài toán ứng phó với BĐKH, không chỉ có yêu cầu liên kết các quốc gia mà ngay trong nước cũng phải có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, cần có các hoạt động, cơ chế phối hợp liên ngành, liên lĩnh vực. Thiên tai hạn mặn hiện nay có thể nói là khá nghiêm trọng, chưa từng xảy ra nên công tác ứng phó không khỏi những khó khăn. Giải pháp chống hạn mặn và thích nghi với hạn hán, xâm nhập mặn không chỉ giải quyết trên quy mô nhỏ do từng địa phương thực hiện mà cần được xem xét trên quy mô tổng thể toàn khu vực.

Hưởng ứng Chiến dịch Giờ Trái đất 2016 tiết kiệm năng lượng và chống BĐKH
PV: Việt Nam đã rất tích cực triển khai các cam kết quốc tế về ứng phó với BĐKH. Điều này tạo lợi thế gì để Việt Nam đối mặt với tương lai khắc nghiệt đã được cảnh báo trước, thưa ông?
Cục trưởng Nguyễn Văn Tuệ: Có thể nói Việt Nam rất chủ động trong công tác ứng phó với BĐKH, chủ động tìm kiếm những mô hình, giải pháp, phương thức giảm phát thải KNK, thích ứng với BĐKH; chuẩn bị cơ sở pháp lý, cơ chế chính sách để sẵn sàng triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về BĐKH. Kể từ khi còn chưa có những ràng buộc về giảm phát thải, Việt Nam rất tích cực tham gia các hoạt động nhằm giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu.
Đảng, Nhà nước đã chủ động ban hành các Chủ trương, Chính sách lớn như: Nghị quyết 24 về ứng phó với BĐKH, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược phòng chống thiên tai, Chiến lược về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả; đã triển khai Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC), hình thành diễn đàn đối thoại chính sách (SPRCC) với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan và các đối tác phát triển quốc tế nhằm xây dựng khung chính sách hàng năm để Chính phủ ban hành, từng bước bước hoàn thiện cơ chế, chính sách trong ứng phó với BĐKH. Hằng năm, Chính phủ vẫn luôn vẫn luôn dành một phần ngân sách để thực hiện các dự án, chương trình ứng phó với BĐKH như xây dựng các công trình ngăn mặn, giữ ngọt, trồng rừng ngập mặn ven biển, trồng rừng đầu nguồn, xây dựng đê kè chống xói lở ven sông, bờ biển… Trước tình hình BĐKH và thiên tai khí tượng thủy văn có xu hướng ngày càng nghiêm trọng, Chiến lược phát triển ngành KTTV đến năm 2020, Luật Phòng chống thiên tai, Luật KTTV mới được thông qua đều xác định nhiệm vụ nâng cao năng lực phòng chống thiên tai là cực kì quan trọng, đặc biệt là phải nâng cao năng lực dự báo thời tiết nói chung và dự báo, cảnh báo thiên tai nói riêng.
Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 21 (COP 21) đã thông qua Hiệp định Paris về BBĐKH. Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ TN&MT đang chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành chuẩn bị rất tích cực để Việt Nam phê chuẩn Hiệp định. Đồng thời, Bộ TN&MT đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng kế hoạch triển khai Hiệp định Paris, dự kiến cuối năm sẽ trình Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh đó, Việt Nam đang chủ động triển khai các hoạt động cắt giảm khí nhà kính phù hợp điều kiện quốc gia (NAMA), chủ động vận động hỗ trợ quốc tế cho công tác ứng phó với BĐKH.
Thông qua các hoạt động này, cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao nỗ lực của Việt Nam và sẵn sàng hỗ trợ các khoản vay lãi suất thấp để Việt Nam ứng phó với BĐKH. Trong giai đoạn trước đã thu hút nguồn hỗ trợ quốc tế hơn 1 tỷ đô la. Giai đoạn 2016 - 2018, các đối tác phát triển đã có cam kết khoảng 230 triệu đô la mỗi năm để hòa vào ngân sách Nhà nước phục vụ cho ứng phó với BĐKH. Ngoài ra, thông qua các hoạt động trao đổi hợp tác, các dự án hỗ trợ kĩ thuật, dự án chuyên ngành cũng thu hút được những khoản tài trợ đáng kể từ các quốc gia và các tổ chức quốc tế nhằm chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực. Đây là nguồn lực quan trọng để Việt Nam thực hiện cam kết quốc tế, thể hiện trách nhiệm chung trong cuộc chiến ứng phó với BĐKH và phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: Website Bộ TN&MT.