* Chưa vận hành đúng
Dù rằng những năm trước tình trạng thiếu nước mùa khô hạn cũng đã xảy ra nhiều, nhưng chưa năm nào tình trạng thiếu nước ở miền Trung lại nghiêm trọng như hiện nay.
Từ đầu năm 2016 đến nay, nước sông Cầu Đỏ (Đà Nẵng) đã bị nhiễm mặn 24 ngày, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc cung cấp nước sinh hoạt cho 900.000 hộ dân và 800 ha đất nông nghiệp của Đà Nẵng. Tại Quảng Nam, nhiều con sông lớn trên địa bàn tỉnh như Trường Giang, Thu Bồn, Cổ Cò… cũng đang bị nhiễm mặn. Xâm nhập diễn ra sớm gây lo ngại cho việc tưới tiêu hàng ngàn ha lúa Đông - Xuân và cấp nước sinh hoạt cho người dân.
Tại lưu vực sông Sê San (Kon Tum), cả 3 hồ chứa nước đều có mực nước thấp hơn so với quy định và không xuất hiện lũ trong cả mùa mưa. Ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên & Môi trường nhận định: Trong tổng số 11 lưu vực sông trên cả nước thì lưu vực sông Sê San là lưu vực gặp khó khăn nhất khi ở thời điểm hiện nay, mực nước ở các hồ chứa thủy điện đều thấp hơn mực nước tối thiểu theo quy định (thiếu 270 triệu m3 so với cùng kỳ tháng 3/2015).
Báo cáo của Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia cho thấy, năm 2015 – 2016 chịu ảnh hưởng nặng nề bởi hiện tượng El Nino, diễn biến thủy văn trên các hồ chứa thủy điện từ Thanh Hóa trở về phía nam gặp nhiều khó khăn, tổng lượng nước về trên các hồ chứa thấp, chỉ đạt 40 – 60% so với trung bình nhiều năm. Dự báo, hạn mặn có thể kéo dài đến tháng 9/2016.
Nhận định một phần nguyên nhân của thực trạng trên là bởi tác động của biến đổi khí hậu, nhưng lãnh đạo các địa phương nhận định, thực trạng trên có một phần do các thủy điện vận hành chưa đúng Quy trình liên hồ chứa (QTVHLHC) lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn.
Chưa đúng quy trình thể hiện rõ nét nhất là các hồ thủy điện trữ nước không xả về hạ du đúng quy định. Thêm nữa, Thủ tướng Chính phủ đã quy định, các nhà máy thủy điện phải thực hiện lắp camera để giám sát việc xả lũ song điều này cũng chưa được thực hiện nghiêm.
Theo dõi, giám sát
Thời gian qua, việc Chính phủ ban hành 11 QTVHLHC là bước tiến quan trọng về cơ sở pháp lý gắn kết các ngành dùng nước, chia sẻ nguồn lợi, bảo vệ tài nguyên nước trên các lưu vực sông. Các quy trình này cũng có ý nghĩa lớn đối với công tác phòng, chống thiên tai, đặc biệt trong mùa mưa lũ, bảo đảm phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, qua kiểm tra thực tế tại một số nhà máy thủy điện khu vực miền Trung, Tây Nguyên vào đầu tháng 3 vừa qua, ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước cho rằng, nhiều nhà máy thủy điện chưa bám vào quy trình vận hành liên hồ chứa đã ban hành. Ông Bẩy đề nghị các đơn vị cần bám vào khung quy trình để vận hành xả lũ và giữ nước, các thủy điện cần xây dựng nhiều phương án đề phòng các tình huống xảy ra, thường xuyên theo dõi; phải bàn lại việc điều chỉnh nhu cầu sử dụng nước trong từng tháng.
Thực tế, mặc dù QTVHLHC đã được xây dựng công phu bởi các nhà chuyên môn nhiều kinh nghiệm, được hội thảo thẩm tra kỹ lưỡng; nhưng xét về tính chất thì các QTVHLHC vẫn được hình thành trên các yếu tố phụ thuộc vào độ chính xác, mức độ tin cậy, khả năng dự báo, kinh nghiệm điều hành thực tế.
Hiệu quả của thực hiện QTVHLHC không chỉ phụ thuộc việc cơ quan quản lý hồ chứa vận hành được ban hành mà còn liên quan chặt chẽ, phụ thuộc vào các giai đoạn của quá trình xây dựng quy trình vận hành, bao gồm: xây dựng các điều kiện biên, đầu vào; xây dựng mô hình tối ưu, tính toán, chọn quy trình, ban hành quy trình; vận hành theo quy trình đã được ban hành; giám sát và đánh giá. Cùng với đó, công nghệ dự báo cũng đóng vai trò quyết định hỗ trợ để ra quyết định vận hành hồ chứa… Do vậy, QTVHLHC cần từng bước điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện.
Cộng đồng cùng tham gia
Hiện nay, để phát huy hiệu quả của các QTVHLHC trong thực tiễn, các chuyên gia tài nguyên nước cho biết, việc xây dựng khung giám sát đánh giá quy trình vận hành cần được quan tâm hàng đầu. Giám sát không chỉ để biết quy trình có được vận hành đúng không mà còn để phát hiện ra những tồn tại khiếm khuyết của quá trình xây dựng quy trình vận hành.
Song song đó, cần tăng cường năng lực cho công tác quan trắc, dự báo nhằm bảo đảm cho việc ra quyết định vận hành hiệu quả nhất; cần có một bộ phận chuyên trách để theo dõi nhằm từng bước nâng cao chất lượng công tác lập quy trình, bổ sung hoàn thiện quy trình vận hành.
Trong vận hành quy trình liên hồ chứa, cộng đồng dùng nước hạ lưu đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, họ lại là những người đối tượng được coi là tiếng nói chưa cao trong quá trình tham vấn xây dựng quy trình vận hành và cả khi trong khi quy trình được vận hành thực tế.
Do vậy, QTVHLHC cũng cần xem xét kỹ hơn phương pháp tiếp cận cùng tham gia của những người sử dụng nước, cần tạo cho cộng đồng niềm tin vào sự công bằng, cũng như nâng cao trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước, chia sẻ và sử dụng hiệu quả nguồn nước nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Nguồn: Website Bộ TN&MT.