 |
Ảnh minh họa |
|
Chi trả các dịch vụ môi trường (PFES-payments for environmental services) là kết quả của sự nỗ lực của Chính phủ Viêt Nam, cụ thể là của Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng (RCFEE) Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam (FSIV), Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE), và là đóng góp đáng kể của đối tác RUPES, trong đó có Tổ chức Winrock Quốc tế, Trung tâm Nông Lâm nghiệp thế giới (ICRAF), Trung tâm Nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR), Quỹ Quốc Tế Bảo Vệ Thiên Nhiên (WWF), Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) trong 5 năm qua.
Có một nghịch lý là việc duy trì bảo vệ các hệ sinh thái rừng thường được thực hiện bởi một nhóm nhỏ, trong khi người hưởng lợi là số đông. Giữa hai bên hưởng lợi và duy trì lợi ích cần có sự bù đắp công bằng thông qua một cơ chế kinh tế. Cơ chế này cũng tạo ra một nguồn ngân sách cho việc đầu tư phục hồi và duy trì bền vững các giá trị hệ sinh thái. Đó chính là ý nghĩa ban đầu cho sự ra đời của cơ chế “Chi trả dịch vụ môi trường”( PFES).
PFES là bước ngoặt về chính sách đối với nghề Rừng ở Việt Nam. Từ năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập cơ sở pháp lý nhằm thực hiện PFES thông qua Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi. Năm 2008, Quyết định số 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm PFES tại hai tỉnh Sơn La và Lâm Đồng. Năm 2010, Nghị định số 99/2010/NĐ-CP tiếp tục được ban hành nhằm triển khai Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên phạm vi toàn quốc từ 1/1/2011. Sau 5 năm được thực hiện ở Việt Nam, PFES đã cho thấy tĩnh hữu dụng của nó trong công tác bảo vệ rừng.
Theo Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR), dựa trên những nghiên cứu cụ thể kết hợp với thông tin thu thập được tại các dự án thí điểm PFES cho thấy, PFES đã chứng minh tính hiệu quả, hiệu ích và công bằng của PFES trong quá trình triển khai tại Việt Nam từ năm 2008, tương ứng với ba khía cạnh của PFES bao gồm: Xây dựng các cơ sở pháp lý, cơ chế chia sẻ lợi ích, giám sát và đánh giá.
Nhận định về các thành tựu chính của PFES tại Việt Nam, CIFOR cho biết, việc triển khai PFES đã tạo điều kiện cho việc nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý, nâng cao nhận thức xã hội và thu được 1.782 tỉ đồng, trong đó tiền chi trả từ các cơ sở sản xuất thủy điện chiếm khoảng 98%, từ các công ty cung cấp nước 2% và từ các công ty kinh doanh dịch vụ du lịch, lữ hành 0,1%. Tổng nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng ước tính chiếm 0.8% ngân sách đầu tư lâm nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện PFES cũng tồn tại một số hạn chế. Cụ thể, do thiếu các cơ sở pháp lý và các hướng dẫn chi tiết nên trong số các loại dịch vụ môi trường rừng quy định tại Nghị định 99/2010/NĐ-CP, hiện mới có 2 dịch vụ được thực hiện là dịch vụ phòng hộ đầu nguồn và dịch vụ du lịch sinh thái.
Việc giải ngân từ Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tới những người cung cấp dịch vụ môi trường cũng đạt tỷ lệ khá khiêm tốn (46%) trong tổng số tiền thu được tới nay. Bên cạnh đó, nhóm đối tượng cộng đồng vẫn chưa có sự rõ ràng về tư cách pháp nhân để tham gia vào những thỏa thuận về PFES, điều này làm giảm sự quan tâm của các cộng đồng địa phương tới việc bảo vệ và phát triển rừng.
Ngoài những bất cập trên, việc thực hiện PFES cũng còn thiếu các hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng tiền chi trả cũng như các quy định liên quan tới hệ thống giám sát và đánh giá. Việc chưa có các hướng dẫn cụ thể dẫn tới tình trạng hiểu và thực thi khác nhau tại các địa phương cũng như sự e dè trong công tác triển khai PFES do e ngại làm sai định hướng.
Nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện PFES, CIFOR đề xuất cần minh bạch hóa việc phân bổ nguồn tiền từ cấp trung ương tới địa phương thông qua việc phát triển một hệ thống giám sát và đánh giá với một cơ chế ghi nhận và phản hồi ý kiến rõ ràng. Bên cạnh đó, PFES cũng cần được hỗ trợ và kết hợp với các chương trình bảo tồn đất, nguồn nước ở lưu vực và phát triển kinh tế xã hội khác để mang đến một chương trình toàn diện hơn.
T.Minh