• Sống thân thiện với môi trường
 

SỐ LƯỢT TRUY CẬP

4
9
3
2
5
1
2
8
Thông tin tổng hợp trong lĩnh vực môi trường 26 Tháng Tám 2016 8:20:00 SA

Nhiều vấn đề cấp bách đang đặt ra đối với công tác quản lý, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đất nước

 


Ảnh minh họa

 
 
“Môi trường nước ta đang chịu nhiều áp lực lớn từ các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trong nước, sức ép cạnh tranh của quá trình hội nhập quốc tế cùng các tác động xuyên biên giới. Cùng với đó là các vấn đề bức xúc, cấp bách đang tạo ra những tác động tiêu cực ngày càng lớn gây tác động trực tiếp tới an toàn sức khỏe và sinh kế người dân” - Đó là phát biểu của Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà tại Hội nghị trực tuyến về công tác bảo vệ môi trường toàn quốc diễn ra sáng 24/8.
 

 

Môi trường và sức ép từ phát triển kinh tế

Theo báo cáo của Bộ TN&MT, hàng năm, có hơn 2.000 dự án đầu tư thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) nếu không được đánh giá một cách đầy đủ và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát hiệu quả thì sẽ là những nguy cơ rất lớn đến môi trường. Các vấn đề môi trường theo dòng chảy sông Mê Công, sông Hồng, các sông xuyên biên giới ngày càng phức tạp. Việc xây dựng các dự án thủy điện của một số quốc gia trên dòng chính sông Mê Công đã và đang có những tác động, ảnh hưởng lớn đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

 

Bên cạnh đó, trên cả nước hiện có: 283 khu công nghiệp với hơn 550.000m3 nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung; các CCN còn lại, hoặc các cơ sở sản xuất tự xử lý nước thải hoặc xả trực tiếp ra môi trường; hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu; hơn 13.500 cơ sở y tế hàng ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 m3 nước thải y tế; 787 đô thị với 3.000.000 m3 nước thải ngày/đêm nhưng hầu hết chưa được xử lý; lưu hành gần 43 triệu mô tô và trên 2 triệu ô tô tạo ra nguồn phát thải lớn đến môi trường không khí. Hàng năm, có 100.000 tấn hoá chất bảo vệ thực vật được sử dụng. Trong đó, khoảng 80% lượng thuốc bảo vệ thực vật đang được sử dụng không đúng quy định; hiệu suất sử dụng chỉ đạt 25-60%; công tác thu gom, lưu giữ và xử lý bao bì chưa được quan tâm, nhiều nơi thải bỏ ngay tại đồng ruộng gây phát sinh mùi, khí thải; hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, hơn 630 nghìn tấn chất thải nguy hại; hiện có 458 bãi chôn lấp rác thải, trong đó có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí dioxin, furan. Đó là những nguồn tác động rất to lớn đến môi trường ở nước ta.

 

Khu vực FDI hiện đóng vai trò chủ yếu trong xuất khẩu của Việt Nam. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu và 59% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Xét về mặt tăng trưởng, 70% tốc độ tăng trưởng của nước ta hiện nay được đóng góp bởi các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, FDI có chiều hướng dịch chuyển dòng vốn vào các ngành tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường như luyện kim, sửa chữa tàu biển, dệt may, da giày, khai thác và tận thu khoáng sản không gắn với chế biến sâu, sản xuất bột giấy, sản xuất hóa chất, chế biến nông sản thực phẩm…; chưa đạt được mục tiêu thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ… Một số dự án FDI vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường như công ty Vedan, Miwon, Formosa, khói bụi ô nhiễm của nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2, Công ty Lee&Men...  

 

Nhận thức rõ những thách thức, áp lực rất lớn nêu trên, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường. Trong những năm qua, hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường được bổ sung và hoàn thiện từng bước. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 2014, Luật Đa dạng sinh học 2008. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 24 văn bản hướng dẫn triển khai Luật; Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan ban hành 11 Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật, 31 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật, các công cụ, biện pháp quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được đẩy mạnh. Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường. Tính từ năm 2006 đến nay đã phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính đối với 2.229 tổ chức, đồng thời buộc các đối tượng vi phạm thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại. Qua đó, nhiều vấn đề môi trường đã được xử lý, mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường chậm lại.

 

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ môi trường còn những tồn tại, bất cập trong xây dựng và tổ chức thực hiện. Cụ thể: Thiếu cơ chế, tiêu chí về môi trường để sàng lọc hiệu quả các loại hình sản xuất, công nghệ sản xuất, các dự án đầu tư vào khu vực nhạy cảm về môi trường; Thiếu cơ chế thúc đẩy khu vực kinh tế xanh, đầu tư vào các loại hình sản xuất thân thiện với môi trường; Pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ, thiếu nhiều quy định chi tiết, cụ thể; quy chuẩn kỹ thuật còn bất cập. Cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chậm đổi mới, chưa theo kịp với những thay đổi nhanh của thực tế, tính chất phức tạp của các vấn đề môi trường; Chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các công cụ, biện pháp quản lý nhà nước về môi trường còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu. Tổ chức thực hiện chưa tốt, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao. Công tác phòng ngừa, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm chưa hiệu quả; công tác quản lý chất thải, nhất là rác thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp còn chưa thống nhất, chồng chéo; còn xảy ra tình trạng chôn lấp, thải bỏ chất thải không đúng với quy định, không bảo đảm về môi trường; các chương trình khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường chậm tiến độ vì thiếu vốn; Năng lực quan trắc, cảnh báo, phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường về môi trường, các sự cố về môi trường còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu; thiếu quy chế ứng phó sự cố, năng lực ứng phó sự cố môi trường còn nhiều bất cập; thiếu biện pháp kỹ thuật - công nghệ, các thiết bị, phương tiện để kiểm soát hiệu quả các nguồn thải, hoạt động xả thải của doanh nghiệp; Các quy định, cơ chế phối hợp giữa các cấp, các tổ chức trong giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát ô nhiễm trong quá trình thi công, xây dựng, vận hành thử nghiệm, khi kết thúc dự án còn thiếu và chưa được quan tâm thực hiện.

 

Mặc dù nhiều vấn đề môi trường đã được xử lý, mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường chậm lại, tuy nhiên, còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải tập trung giải quyết, xử lý.

 

Những vấn đề cấp bách trong quản lý và bảo vệ môi trường

Theo Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà, môi trường nước ta đang đứng trước những vấn đề cấp bách cần được tập trung giải quyết, xử lý. Đó là hoạt động khai thác khoáng sản ở nhiều địa phương thiếu sự quản lý chặt chẽ làm gia tăng các điểm nóng về ô nhiễm môi trường. Hoạt động khai thác khoáng sản thải đất đá và nước thải mỏ, bụi thải, quặng xỉ ngấm xuống nguồn nước hoặc phát tán ra môi trường; làm thay đổi hệ sinh thái rừng, suy thoái và ô nhiễm đất nông nghiệp. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt nghĩa vụ cải tạo, phục hồi môi trường sau khi đóng cửa mỏ, giảm hiệu quả sử dụng đất, đặc biệt tại khu vực tập trung nhiều mỏ khai thác khoáng sản như Tuyên Quang, Thái Nguyên, Quảng Ninh…

 

Chất thải từ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân khu vực nông thôn không được thu gom, xử lý đúng quy cách, hợp vệ sinh; tình trạng sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan dẫn đến ô nhiễm môi trường nông thôn ngày càng gia tăng, một số nơi rất nghiêm trọng. Hoạt động canh tác thâm canh với việc sử dụng các loại phân bón hóa học, thuốc trừ sâu làm phát sinh và gia tăng các khí CH4, H2S, NH3, đặc biệt là tại các khu vực chuyên canh nông nghiệp sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật không đúng quy trình kỹ thuật như: Đông Anh (Hà Nội), Hiệp Hòa (Bắc Giang), Yên Định (Thanh Hóa), Tây Nguyên (Đức Trọng, thành phố Đà Lạt).

 

Nhiều làng nghề hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất đang gây ô nhiễm cao đối với môi trường như: tái chế nhựa, kim loại, ắc quy chì, chăn nuôi gia súc, sản xuất giấy,... Ô nhiễm bụi tại các làng nghề sản xuất gốm sứ, chế tác đá, đồ thủ công mỹ nghệ; ô nhiễm không khí tại làng nghề tái chế nhựa; ô nhiễm mùi, nước, ô nhiễm chất hữu cơ tập trung nhiều tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm và giết mổ. Ô nhiễm kim loại nặng trong nước mặt đang xảy ra tại các làng nghề cơ kim khí và làng nghề tái chế kim loại.

 

Đã xảy ra sự cố môi trường lớn, tác động trên diện rộng, đặc biệt là sự cố môi trường biển miền Trung; bùng phát các điểm nóng gây ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, sự cố môi trường biển miền Trung tháng 4 vừa qua diễn ra trên diện rộng, gây ra hậu quả lớn về kinh tế, xã hội, môi trường trước mắt và lâu dài; đã ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thuỷ, hải sản, làm muối, dịch vụ hậu cần nghề cá, du lịch; đồng thời đã làm xáo trộn, gây mất an ninh trật tự, tâm lý bức xúc, bất an trong nhân dân.

 

Tình trạng hạn hán, khô hạn và hoang mạc hóa do tác động cực đoan của thời tiết và biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Đợt mưa lũ lịch sử tại Quảng Ninh đã gây thiệt hại hơn 2.500 tỷ đồng. Nước biển xâm thực vào đất liền khoảng 200m ở Cửa Đại, Quảng Nam đe dọa nhấn chìm cả khu vực. Đại hạn và xâm thực mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ khiến nhiều triệu nhân dân sống khổ sở và gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng.

 

Nước thải sinh hoạt ở hầu hết các đô thị, khu dân cư chưa được xử lý; rác thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp chưa được quản lý tốt, gây ô nhiễm môi trường: Hiện chỉ có 40/786 đô thị trên cả nước có công trình xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn với tổng công suất xử lý khoảng 800.000 m3/ngày đêm. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý mới chỉ đạt 10% - 11%; còn lại thải trực tiếp ra môi trường. Nhiều địa phương chưa có bãi chôn lấp chất thải công nghiệp; tình trạng đổ thải, chôn lấp chất thải công nghiệp trái quy định còn xẩy ra ở nhiều nơi.

 

Nguồn nước mặt, nước dưới đất trong các đô thị, khu dân cư ở một số địa phương bị ô nhiễm nặng: Tại các lưu vực sông, ô nhiễm nghiêm trọng và suy thoái chất lượng nước tập trung ở vùng trung lưu và hạ lưu, như ở lưu vực sông Nhuệ - Đáy, sông Cầu, hệ thống sông Đồng Nai.

 

Các khu vực ô nhiễm tồn lưu chậm được xử lý, cải tạo, phục hồi dẫn đến ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm: Đến nay, vẫn còn 160/240 điểm, khu vực ô nhiễm tồn lưu hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật chưa hoàn thành xử lý ô nhiễm môi trường theo Quyết định số 1946/QĐ-TTg. Việc đầu tư cho xử lý ô nhiễm hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu mới đáp ứng 21% so với kế hoạch đã đề ra.

 

Diện tích các hệ sinh thái tự nhiên giảm mạnh, đa dạng sinh học tiếp tục bị suy thoái nhanh: Các hệ sinh thái tự nhiên khác như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển... mặc dù được quan tâm trồng mới, bảo tồn nhưng cũng đang đứng trước tình trạng suy thoái, chưa được khôi phục. Các nguồn gen, đặc biệt là nguồn gen đặc hữu tiếp tục bị suy giảm, cạn kiệt.



Nguồn: CTTĐT


Số lượt người xem: 4257    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Xem tiếp
Xem theo ngày Xem theo ngày
Tìm kiếm